Họ tên bệnh nhân: L V C
Năm sinh 1936 Giới tính: nam
Học vấn: 5/12 Nghề nghiệp: Tài xế
Nơi ở: Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh
Bệnh nhân có biểu hiện suy giảm nhận thức 3 năm nay với những vấn đề sau:
Tuy nhiên bệnh nhân không có các biểu hiện rối loạn hành vi, trầm cảm, lo âu, rối loạn giấc ngủ, ảo giác hay hoang tưởng.
Các triệu chứng kể trên tăng dần theo thời gian, bệnh nhân có đi khám bệnh nhưng chỉ được dùng các thuốc Ginkgo biloba, Piracetam. Các triệu chứng kể trên không cái thiện
Tổng quát:
Thần kinh:
Các thang điểm đánh giá sa sút trí tuệ:
Sa sút trí tuệ Alzheimer giai đoạn trung bình, chưa loại trừ sa sút trí tuệ mạch máu đi kèm (sa sút trí tuệ hỗn hợp).
Bệnh nhân có cải thiện chức năng nhận thức ( ăn uống tốt hơn, mặc quần sạch sau khi tắm, siêng đi tập thể dục, điểm test vẽ đồng hồ cải thiện 6/10 điểm, tuy nhiên điểm MMSE chưa thay đổi)
Sa sút trí tuệ (SSTT) là thuật ngữ được Bác sĩ Philipe Pinel đưa ra đầu tiên năm 1797. SSTT là một hội chứng mắc phải do tổn thương tế bào não gây ra, biểu hiện bằng sự mất chức năng nhận thức, thay đổi về hành vi và mất các chức năng xã hội. Khái niệm này được Hội tâm thần Hoa Kỳ xác định là sự mất khả năng nhận thức đủ nặng để ảnh hưởng đến chức năng nghề nghiệp và xã hội, với trạng thái ý thức bình thường và không có các rối loạn cấp tính hoặc bán cấp gây suy giảm nhận thức (ví dụ: trầm cảm, sảng …).
Cho đến nay SSTT do bệnh Alzheimer và SSTT mạch máu là hai nguyên nhân thường gặp nhất. Theo y văn, bệnh Alzheimer chiếm 60%, kế đến là SSTT mạch máu chiếm 20%. Tuy nhiên một số báo cáo gần đây cho rắng SSTT mạch máu chiếm tỉ lệ cao hơn bệnh Alzheimer ở một số nước châu Á.
Tiêu chuẩn về bệnh học để chẩn đoán bệnh Alzheimer là các mảng viêm thần kinh và vi sợi thần kinh. Gần đây cơ chế mạch máu cũng được ghi nhận trong bệnh Alzheimer. Theo đó SSTT là một phổ liên tục, một cực là bệnh Alzheimer và một cực là SSTT mạch máu, khu vực trung gian là SSTT hỗn hợp với các mức độ kết hợp khác nhau của mỗi thể. Các yếu tố nguy cơ mạch máu có liên quan đến SSTT gồm tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu và hút thuốc.
Có nhiều tiêu chuẩn chẩn đoán SSTT nói chung hay từng thể bệnh Alzheimer và SSTT mạch máu nói riêng. Trên lâm sàng thường ứng dụng tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-IV (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorder, Fourth Edition).
Chẩn đoán phân biệt bệnh Alzheimer và SSTT mạch máu đôi khi rất khó. Có thể dựa vào thang điểm Hachinski, kiểu khởi phát và diễn tiến của các biểu hiện lâm sang, và các bất thường trên hình ảnh học. Theo đó, trên bệnh nhân đã trình bày ghi nhận:
Các phương pháp điều trị bệnh Alzheimer chia làm hai nhóm: (1) điều trị triệu chứng dựa trên tăng cường hệ thống dẫn truyền thần kinh và (2) sử dụng chất oxy hóa để bảo vệ thần kinh. Trên lâm sàng chúng ta chú trọng đến điều trị suy giảm nhận thức và điều trị các rối loạn tâm thần kinh.
Ngoài việc tham gia các hoạt động trí nhớ để điều trị suy giảm nhận thức, bệnh nhân Alzheimer được dùng các nhóm thuốc (ức chế Cholinesterase, Memantine).
Việc điều trị các rối loạn tâm thần kinh chủ yếu là thay đổi môi trường sống, giảm công việc, hoạt động phù hợp. Chỉ dùng thuốc điều chỉnh các rối loạn về hành vi và rối loạn tâm thần khi các phương pháp trên không hiệu quả.
Trên bệnh nhân đã trình bày, sau 3 tháng điều trị với thuốc ức chế Cholinesterase, Galantamine (Reminyl) triệu chứng lâm sàng không nặng hơn và có thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Galantamine (Reminyl) có cơ chế tác động kép là ức chế Acetylcholineesterase và điều vận thụ thể Nicotinic. Trong một nghiên cứu so sánh Galantamine với giả dược, Erkinjuntti và cộng sự ghi nhận Galantamine dung nạp tốt và cải thiện chức năng nhận thức trên bệnh Alzheimer, SSTT mạch máu và SSTT hỗn hợp.
Tóm lại, Alzheimer là một thể bệnh thường gặp trong hội chứng SSTT. Việc sử dụng các nhóm thuốc ức chế Cholinesterase và Memantine có thể làm chậm diễn tiến của bệnh và cải thiện một phần nào đó các chức năng nhận thức bị ảnh hưởng. Ngày càng gặp nhiều hơn các trường hợp SSTT hỗn hợp, bệnh Alzheimer kết hợp với SSTT mạch máu. Tuy nhiên điều quan trọng là phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm để việc điều trị đạt kết quả tốt nhất.